Vào cuối thời Đông Hán, một triều
đại kéo dài 400 năm lịch sử dần bắt đầu đi đến hồi kết, triều đình thối nát,
hoạn quan chuyên quyền, quan lại tham nhũng, nạn đói hoành hành.
Là bối cảnh xã hội của Trung Hoa
lúc bấy giờ.
Đổng Trác, 1 thế lực đến từ phía
tây bắc đem quân tiến vào kinh thành tiêu diệt hoạn quan, khống chế triều chính
lập vị vua trẻ tuổi là Hán Hiến Đế lên ngôi. Tự phong mình là Thái Sư, nắm trọn
toàn bộ quyền lực.
Năm 190, liên minh các sứ quân do
Viên Thiệu cầm đầu đã khởi binh nổi dậy ở các tỉnh miền đông chống lại Đổng
Trác. Sau cuộc chiến, dưới áp lực của liên quân Đổng Trác phải mang theo Hiến
Đế chạy về phía Tây tới Trường An vào năm 191. 1 năm sau, vì mắc mỹ nhân kế của
Vương Doãn, ông bị con nuôi của mình là Lã Bố giết chết. Cũng từ sau cái chết
của Đổng Trác, liên minh các sứ quân tan rã, các lãnh chúa địa phương vì sự
tranh giành đất đai và quyền lực quay sang tấn công lẫn nhau. Đổng Trác chết,
các bộ tướng dưới quyền là Lý Thôi, Quách Dĩ cũng tranh nhau quyền lực.
Nhân cơ hội đấy, Hiến Đế tháo
chạy khỏi kinh thành. Năm 196, ông được Tào Tháo hộ giá về Hứa Đô, tưởng chừng
quyền lực hoàng đế sẽ được khôi phục nhưng lại bị Tháo sử dụng như con bài được
gọi là "nắm Thiên Tử lệnh chư hầu".
Lúc này Trung Hoa bị phân chia
giữa các thế lực quân phiệt đáng gờm như Viên Thiệu ở Ký Châu đối đầu với Công
Tôn Toản ở phía bắc, ở Từ Châu có Lưu Bị - mang trong mình máu mủ hoàng tộc cùng
2 người anh em kết nghĩa là Quan Vũ, Trương Phi ôm hoài bão phục hưng lại sự
thịnh vượng của nhà Hán.
Lã Bố sau khi giết được Đổng Trác,
không lâu sau ông cũng bị các thuộc hạ của Trác đuổi đánh khỏi Trường An và
hiện đóng quân ở Hạ Bì.
Viên Thuật nắm Ngọc Tỉ trong tay
và xưng đế ở Thọ Xuân. Xa hơn nữa về phía nam là viên tướng trẻ Tôn Sách xây
dựng lực lượng tại khu vực hạ lưu sông Dương Tử, ôm mộng làm chủ miền nam Trung
Hoa. Họ Tôn có 1 kẻ thù không đội trời chung trong khu vực đó là Lưu Biểu ở Kinh Châu.
Những lãnh chúa khác như Mã Đằng,
Lý Thôi,Trương Lỗ, Lưu Chương cũng dáy lên làn sóng tranh giành địa bàn. Chiến
sự nổ ra khắp các khu vực tại Trung Hoa. Sử gọi đây là "quần hùng cát
cứ".
Khi Tào Tháo nắm trong tay vua
Hán lực lượng trở nên hùng mạnh, địa bàn từng bước mở rộng; trong vòng 4 năm
sau đó, ông lần lượt tiêu diệt Lã Bố ở Từ Châu, thôn tính Viên Thuật ở Thọ Xuân
và trở thành phe quân phiệt mạnh nhất phía đông. Cùng lúc, Viên Thiệu cũng đã
tiêu diệt đối thủ Công Tôn Toản ở phía bắc và trở thành thế lực mạnh mẽ nhất mà
Tào Tháo chưa từng dám đối địch khi mới đến Hứa Đô. 2 tập đoàn quân phiệt mạnh
nhất Trung Hoa được hình thành. Viên Thiệu với 70 vạn đại quân có tham vọng
tiến xuống miền nam tranh thiên hạ. Lúc bấy giờ, Tào Tháo chỉ có trong tay
70.000 quân để chống lại Viên Thiệu. Sau nhiều tháng lập kế hoạch, 2 bên đã
giao tranh tại Quan Độ. Nhờ phát hiện và đốt cháy kho lương của quân Viên, Tháo
thừa cơ dẫn quân tập kích khiến Viên Thiệu đại bại tan nát. Không lâu sau đó,
Viên Thiệu suy sụp và bệnh mất. Các con trai của ông ta tranh quyền đoạt vị và
tàn sát lẫn nhau. Tháo giành hoàn toàn thế chủ động. Vào năm 207, Tào Tháo tiêu
diệt hoàn toàn thế lực tàn dư các con trai Viên Thiệu thống trị toàn bộ miền
bắc Trung Quốc.
Sau khi liên minh với Viên Thiệu
bị tan vỡ, Lưu Bị phải chạy về Kinh Châu nương náu dưới trướng Lưu Biểu. Năm
208, Tào Tháo xuất quân nam chinh với ý định nhanh chóng thống nhất đế chế. Trước
tình cảnh đó, Lưu Bị 3 lần thăm lều tranh và chiêu mộ được quân sư Gia Cát
Lượng. Lượng đề ra kế sách "liên Ngô kháng Tào" và áp dụng ngay sau
đó. Nghe tin quân Tào nam tiến, con Lưu Biểu là Lưu Tòng đầu hàng và dâng đất
Kinh Châu. Tào Tháo có đất mà chả tốn 1 binh sĩ nào. Trong tình thế nguy cấp,
Lưu Bị sai sứ sang Giang Đông đề xuất liên minh kháng Tào Tháo. Tôn Quyền lúc
này người kế vị Tôn Sách ở Giang Đông mở cuộc họp bàn bạc với các mưu sĩ, cuối
cùng ông cũng ra quyết định cùng Lưu kháng Tào. Mùa đông năm 208, Tào Tháo
triển khai 1 lực lượng thủy quân lên đến 80 vạn quân hướng thẳng vào Giang Đông.
Đại đô đốc Chu Du thống lĩnh thủy quân Giang Đông nghênh chiến quân Tào ở Xích
Bích. Liên quân Tôn - Lưu lúc này chỉ có 5 vạn, quân Tào do đến từ phương bắc
nên không thạo thủy chiến lại bị say sóng, nên Tháo lệnh cho các tàu chiến xích
lại với nhau. Vì thế mà Chu Du dễ dàng sử dụng hỏa công thiêu rụi 80 vạn quân
Tào trên sông chỉ trong 1 đêm.
Sau trận chiến Lưu Bị thừa thắng
chiếm đất Kinh Châu của quân Tào và các thành trì ở phía nam. Năm 214, Lưu Bị
đưa quân vào Ích Châu và đánh bại Lưu Chương trở thành 1 thế lực tầm cỡ, đối
trọng với Tào Tháo ở phía bắc.
Sau khi thua trận Xích Bích, Tào
Tháo khôi phục lại lực lượng. Sau đó đem quân triệt tiêu các thế lực cát cứ còn
lại ở phía tây như Mã Siêu, Hàn Toại, Trương Lỗ.
Năm 219, tướng trấn giữ Kinh Châu
của phe Lưu Bị là Quan Vũ xuất chinh bắc tiến vây hãm Phàn Thành. Trước thế
tiến công như vũ bão, quân Tào không chống đỡ nổi. Nhân cơ hội Lưu Bị và Tôn
Quyền đang bất hòa về việc tranh chấp lãnh thổ, quân sư Tư Mã Ý của phe Tào
hiến lên diệu kế "liên Ngô kháng Quan Vũ". Sau khi đạt được thỏa
thuận chung, Tào -Tôn liên minh với nhau, Tôn Quyền phái đại đô đốc Lữ Mông lén
lút đánh úp Kinh Châu đồng thời bắt sống và xử tử Quan Vũ. Phàn Thành từ đó
cũng được giải vây, Kinh Châu nằm trọn trong tay Tôn Quyền.
Một năm sau, Tào Tháo bệnh mất ở
tuổi 66, con trai ông là Tào Phi lên kế vị, ông phế truất vua Hán chính thức
lên ngôi hoàng đế, lấy quốc hiệu là Đại Ngụy; 2 người còn lại là Lưu Bị và Tôn
Quyền cũng lần lượt xưng đế hình thành thế chân vạc tam quốc Ngụy - Thục – Ngô.
Sau khi xưng đế, Lưu Bị đem 70
vạn đại quân tiến đánh Kinh Châu để trả thù cho người em kết nghĩa Quan Vũ. Đại
đô đốc nước Ngô là Lục Tốn kháng cự và sử dụng hỏa công. Lưu Bị thất bại thảm
hại, suy sụp và bệnh mất, con trai Lưu Bị là Lưu Thiện lên thay, sai sứ làm hòa
với nước Ngô cùng nhau đối địch nước Ngụy.
Mùa xuân năm 228, thừa tướng nước
Thục là Gia Cát Lượng tiến hành chiến dịch chinh phạt nước Ngụy thống lĩnh 10
vạn quân mã với mục tiêu chiến lược là chiếm đóng Trường An. Sau đó tiến thẳng
vào kinh đô nhà Ngụy là Lạc Dương. Ngụy quân đại đô đốc Tư Mã Ý xuất chiến
chống trả, chiến tranh Thục - Ngụy kéo dài 6 năm, cả 2 bên đều trong thế giằng
co.
Do vất vả, mệt nhọc lâu ngày mà
sinh bệnh. Gia Cát Lượng không may qua đời trong doanh trại, chỉ thọ được 54
tuổi, học trò của Lượng là Khương Duy lên thay thế tiếp tục công cuộc bắc phạt
kéo dài 15 năm.
Sau khi đẩy lùi được các cuộc tấn
công của quân Thục. Tư Mã Ý đức cao trọng vọng, trở thành trọng thần nước Ngụy.
Năm 239, Tư Mã Ý cùng tông thất
Tào Sảng làm phụ chính vị vua mới là Tào Phương lên ngôi chỉ mới gần 8 tuổi. Nhằm
loại bỏ thế lực họ Tư Mã, Tào Sảng dùng mưu thu hồi binh quyền của Ý. Từ đấy,
Tư Mã Ý cáo bệnh xin về hưu nghỉ già. 10 năm sau, nhân cơ hội Tào Sảng và những
thân tín không đề phòng, Tư Mã Ý phát động chính biến, giết chết Tào Sảng, xử
chém hàng loạt những quan chức trong tôn thất họ Tào đưa gia tộc họ Tư Mã nắm
quyền lực toàn diện. Từ đó về sau, các hoàng đế họ Tào đều biến thành bù nhìn
của họ Tư Mã.
Do các cuộc bắc phạt của Khương
Duy đều không mang lại kết quả nước Thục trở nên kiệt quệ và suy yếu.
Năm 263, con trai Tư Mã Ý là Tấn
Vương Tư Mã Chiêu lúc này đang cầm quyền nước Ngụy, ông cử 2 đại tướng Chung
Hội và Đặng Ngải thống lĩnh hơn 10 vạn quân tiến đánh nước Thục. Khương Duy cất
binh chống trả, chiến đấu quyết liệt với Chung Hội ở mặt trận phía bắc. Đặng
Ngải lúc này đem quân đi đường tắt về phía núi Âm Bình xuống đồng bằng và tiến
thẳng vào kinh đô nước Thục. Chúa nước Thục là Lưu Thiện vừa nghe tin đã sợ hãi
mà ra đầu hàng. Sau khi vào bên trong Thành Đô thì Đặng Ngải từ trong đánh ra. Chung
Hội từ ngoài đánh vào, hình thành 2 mũi giáp công nhanh chóng tiêu diệt nước
Thục.
Sau khi Thục diệt vong, nhưng
Khương Duy vẫn còn nuôi hi vọng phục quốc. Nhận ra Chung Hội và Đặng Ngải có
mâu thuẫn từ lâu và cả 2 đều có dã tâm tạo phản, Duy dẫn các tướng Thục đến
hàng Chung Hội. Hội và Ngải lúc này đang đấu đá nhau, nhờ kế của Khương Duy,
Hội dùng thủ đoạn khiến Ngải bị Tư Mã Chiêu xử tử, loại được 1 kẻ địch ra khỏi
cuộc chơi. Sau đó Chung Hội quyết định cùng Khương Duy ở Thành Đô thực hiện kế
hoạch tiêu diệt Tư Mã Chiêu mưu đồ thống nhất thiên hạ, không may sự việc bị
bại lộ các tướng Ngụy nổi giận đem quân xông vào thành giết chết cả hai.
Năm 265, Tư Mã Chiêu qua đời, con
trai là Tư Mã Viêm lên thay, không lâu sau ông ép vua Ngụy Tào Hoán thoái vị và
lên ngôi hoàng đế, lập ra nhà Tấn.
Mùa đông năm 279, Tư Mã Viêm tổng
động viên quân đội chinh phạt Đông Ngô.
Đến năm 280, quân đội Đông Ngô
chống trả yếu ớt rồi tan rã vua Ngô là Tôn Hạo đầu hàng quân Tấn chiến tranh
kết thúc, thiên hạ được thống nhất, đóng lại 1 thế kỷ chia cắt đầy biến động.
Thanhcadu.com
Từ
khóa tìm kiếm: tam quốc diễn nghĩa tập 2, tam quốc diễn nghĩa truyện, tóm tắt
tam quốc diễn nghĩa, tam quốc diễn nghĩa tập 5, tam quốc diễn nghĩa nhân vật,
tam quốc diễn nghĩa 2010 vietsub, tam quốc diễn nghĩa tập 3, tam quốc diễn
nghĩa (phim truyền hình, 1994), tam quốc chí, tam quoc 2019, bài thơ tóm tắt
tam quốc diễn nghĩa, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa trong 9 phút, tam quốc chí và
tam quốc diễn nghĩa, tam quốc diễn nghĩa nhân vật, tóm tắt tam quốc diễn nghĩa
hồi 28, tóm tắt nhanh tam quốc diễn nghĩa, bản đồ tam quốc