Rất lâu rồi tôi mới có dịp đọc được một quyển sách khiến mình phải trăn trở vì
những mặt tích cực và tiêu cực mà nó mang lại. Điều tiêu cực tôi nhắc đến ở
đây không nằm ở bản thân quyển sách, mà nằm ở sự bất đồng quan điểm của tôi và
tác giả David Graeber về một số khía cạnh ông đề cập trong Bullshit Jobs.
Review sách Bullshit Jobs
Trước khi phân tích sâu hơn về những luận điểm này, tôi cần phải trình bày với
các bạn ba điều sau.
Thứ nhất, việc bất đồng quan điểm không đồng nghĩa với việc tôi đánh
giá thấp quyển sách này hay có ác cảm với tác giả. Trên thực tế, đây là một
quyển sách mang mục đích chính trị, như tác giả đã thẳng thắn chia sẻ ở lời mở
đầu, và với văn phong hóm hỉnh, đậm chất châm biếm cùng sự sắp đặt vô cùng
khôn khéo của David, Bullshit Jobs đã hoàn thành sứ mệnh của mình một cách
xuất sắc khi tạo nên tiếng vang quá lớn để thu hút rất nhiều sự chú ý từ mọi
tầng lớp trong xã hội. Mặt khác, khi tìm hiểu về tác giả, một nhà Nhân chủng
học theo chủ nghĩa Vô trị, luôn đứng về phía quần chúng nhân dân và có nhiều
nghiên cứu đáng giá, cảm xúc cá nhân của tôi dành cho ông, là kính trọng và
ngưỡng mộ.
Thứ hai, điều tôi cảm thấy khó hiểu nhất về quyển sách này là cách
nhiều độc giả Việt Nam cảm nhận về nó thông qua các bài review đầy rẫy trên
mạng xã hội. Đa phần đều xem Bullshit Jobs là quyển self help tuyệt đỉnh giúp
họ nhìn nhận lại những công việc “vô nghĩa” mà mình đã và đang làm. Việc một
quyển sách rặt mùi chính trị và mang ý đồ tái thiết xã hội rõ ràng lại bị quy
chụp thành quyển sách CHỈ bàn về cách tư duy và phát triển kỹ năng cá nhân có
vẻ hơi buồn cười. Tôi ngờ rằng bìa sách bóng bẩy kèm câu quote “Đời ngắn lắm,
đừng làm việc vô nghĩa” của nhà thiết kế đã góp phần không nhỏ cho mặc định
này tại Việt Nam. Dĩ nhiên, tôi không thể biết được những độc giả trên đã áp
dụng tư duy này cho công việc thực tế của họ như thế nào vì không tìm được
chia sẻ có liên quan ngoài những bài “cảm nhận”.
Cuối cùng, như đã trình bày ở trên, vì Bullshit Jobs đã tạo một tiếng
vang lớn nên nó đồng thời cũng đứng trước khá nhiều mũi dùi dư luận. Trong một
bài phỏng vấn với Sean Illing, David đã nói “Tôi nghĩ rằng đa số mọi người
thực sự muốn tin rằng họ đang đóng góp cho thế giới theo một cách nào đó, và
nếu bạn phủ nhận điều đó với họ, họ sẽ phát điên hoặc trở nên khốn khổ”. Nhưng
cơn điên mà David đề cập đi xa đến mức các nhà nghiên cứu đã xây dựng một
chương trình Khảo sát điều kiện làm việc tại Châu Âu 2005-2015 (EWCS) xoay
quanh những vấn đề tính hữu ích của công việc, phúc lợi cho người lao động và
dữ liệu khách quan về chất lượng công việc. Kết quả là chỉ có 4.8% công nhân
EU cho rằng họ cảm thấy công việc mình làm không hữu ích, con số này ở Anh và
Ireland là 5.6%, đều thấp hơn rất nhiều so với con số David đề cập trong
Bullshit Jobs (37-40%). Bên cạnh đó, danh sách những ngành nghề có tỷ lệ không
hài lòng trong công việc cao cũng khác biệt so với thống kê của David. Những
điều này làm cho các giả thuyết trong Bullshit Jobs suy yếu rất nhiều, chưa kể
đến việc các nhà nghiên cứu còn cho rằng David đã thiên vị trong chọn mẫu xác
suất thống kê và có sự nhập nhằng khi tính phần trăm.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin phép không dùng đến những
nghiên cứu vừa đề cập mà dựa trên giả thuyết các thống kê trong Bullshit Jobs
là hoàn toàn chính xác, với mẫu nghiên cứu đủ rộng, đúng chuẩn. Tôi chỉ phân
tích luận điểm của mình dưới góc nhìn của người đã và đang tham gia vào nền
kinh tế thị trường, từng kinh qua nhiều “loại” nghề (kể cả những nghề được tác
giả cho là Bullshit Jobs).
Những công việc “vô nghĩa” có thật sự vô nghĩa không?
Theo tác giả, “công việc vô nghĩa là một hình thức việc làm có trả lương, và
nó hoàn toàn vô nghĩa, không cần thiết hoặc có tính độc hại mà đến cả người
làm công việc đó cũng không thể biện minh cho sự tồn tại của nó, mặc dù họ cảm
thấy buộc phải giả vờ rằng nó không phải là việc vô nghĩa, như một phần của
điều kiện làm việc”. Cũng như công việc đó “không tạo ra khác biệt nào cho thế
giới và khi biến mất thì chẳng tổn hại gì cả”.
Không thể phủ nhận một điều rất đúng đắn trong định nghĩa trên là khi người
lao động cảm thấy công việc của họ là nhảm nhí thì nó chắc chắn là nhảm nhí,
NHƯNG CHỈ với họ thôi. Điều này không đồng nghĩa với việc công việc đó vô
nghĩa với toàn bộ thế giới còn lại.
Tôi lấy ví dụ từ một trong số những trường hợp đã gửi thông tin cho David để
dẫn chứng cho điều này. Người đàn ông bảo rằng ông ta phát cáu lên với công
việc chỉ đứng mở cổng và bấm thang máy cho khách. Ông ta cho rằng công việc
này quá sức vô nghĩa và ngớ ngẩn.
Tôi ngay lập tức nhớ đến những người bảo vệ làm nhiệm vụ dỡ hành lý, lưu lại
thông tin của khách và báo với lễ tân, để khi khách bước vào lần đầu tiên, họ
đã được chào trang trọng bằng tên của mình. Tôi nhớ về người phục vụ luôn đứng
chờ khách bước xuống sảnh ăn sáng và hỏi buổi tối của họ có ngon giấc không,
nếu câu trả lời là không, khách hàng sẽ nhận được lời xin lỗi chân thành và
một bữa sáng miễn phí.
Những công việc thoạt nghe rất vụn vặt và nhảm nhí đúng
không? Nhưng tôi e bạn sẽ phải suy nghĩ lại về cái gật đầu của mình khi biết
rằng chính những thứ nhảm nhí này đã tạo nên tên tuổi hàng đầu thế giới của
khách sạn The Ritz-Carlton, điều được các khách hàng nhắc nhớ nhiều hơn cả
những bữa ăn tuyệt hảo và sự sang trọng ở nơi đây. Những công việc “vô nghĩa”
này mang đến sự hài lòng trên cả mong đợi cho khách hàng và gián tiếp đóng góp
vào khoảng thu kết sù của khách sạn.
Dĩ nhiên, khi những công việc này biến
mất, thế giới này sẽ chẳng có gì đổi thay cả, rất nhiều khách sạn vẫn hoạt
động mà không hề có các vị trí này, chỉ là chúng ta sẽ mất đi một huyền thoại
về dịch vụ khách hàng hoàn hảo mang tên The Ritz-Carlton mà thôi.
Tôi nghĩ rằng việc một người đánh giá về công việc của mình (dù là vô nghĩa
hay có ý nghĩa) thì đó chỉ là những cảm nhận chủ quan, không phải là bản chất
công việc. Và một cách thẳng thắn, đó có khi là cảm nhận phiến diện với
cảm xúc và cái nhìn hạn hẹp của chính họ, đến nỗi họ không nhận ra được những
điều đẹp đẽ mà công việc ấy đem đến cho cuộc sống và chính mình.
Giả sử, nếu bạn làm một công việc được trả lương, và nó hoàn toàn vô nghĩa
(trong phạm vi quyển sách, công việc này không vi phạm pháp luật, nó chỉ vô
nghĩa thôi). Mặc dù khi viết đến đây, tôi cảm thấy giả thuyết mình đưa ra thật
ngớ ngẩn, khi có người trả lương cho bạn để bạn làm một việc không mang đến
xíu xiu ích lợi gì cho họ. Nhưng bỏ qua sự gàn dở phi thực tế này, thì bạn
thân yêu ơi, công việc vẫn có ích cho bản thân bạn. Bạn có thể dùng đồng lương
nhận được để nuôi sống bản thân, gia đình và bạn biết đấy, khi lo được cho bản
thân, bạn đã gỉam bớt một gánh nặng cho các quỹ xã hội.
Ồ, tôi còn chưa đi quá xa đến việc bạn có thể dùng đồng lương đó để đầu tư,
góp phần phát triển cho nền kinh tế nước nhà và làm việc thiện đâu nhé!
Tỷ lệ nhảm nhí trong những công việc “có ý nghĩa” có thật quá cao? Và liệu rằng chúng hoàn toàn chẳng có ích lợi gì?
Bên cạnh những công việc vô nghĩa, tác giả có chỉ ra những nhiệm vụ “vô nghĩa”
chiếm gần hết thời gian trong những công việc “không vô nghĩa” như họp hành,
hành chính, kiểm tra mail, việc lặt vặt,… Và ông cho rằng nếu loại bỏ những
nhiệm vụ nhảm nhí này, ta sẽ chỉ cần làm việc với phân nửa thời gian hiện tại.
Đây là điều khá lý tưởng mà bản thân tôi cũng mơ ước. Nhưng chậm lại một chút,
và bỏ qua yếu tố chính trị trong mục này, có thật tất cả những nhiệm vụ này là
vô nghĩa không?
Tôi phải công nhận có những thủ tục hành chính cực kỳ nhiêu khê, và nhiều lúc
tôi cũng tự nhủ nếu bỏ quách quy trình lủng củng này tôi sẽ làm được khối việc
mang đến doanh thu cho công ty. Nhưng khi tôi từ một chân “sai vặt” trở thành
người “vẽ chuyện” thì tôi đã có một cái nhìn khác (“sai vặt” và “vẽ chuyện” là
những thuật ngữ tác giả dùng để phân loại các công việc vô nghĩa, thật đáng
buồn khi từ lúc bắt đầu đến những bước thăng tiến trong sự nghiệp chính của
tôi đều được xếp vào dạng này, tuy nhiên tôi sẽ hết sức khách quan trong phân
tích luận điểm).
Trước tiên là việc chứng từ, nhất là những chứng từ liên quan đến tài chính
đều rất phức tạp, bộ phận bán hàng bảo kế toán làm khó dễ, nhưng họ không biết
được rằng chứng từ này không có nhiều ý nghĩa với họ nhưng lại là bùa hộ mệnh
của bộ phận kế toán nếu sau này phát sinh vấn đề. Thế đấy, có khi một nhiệm vụ
này rất vô nghĩa với người/ bộ phận này nhưng lại vô cùng quan trọng với
người/ bộ phận khác.
Tôi cũng có cái nhìn rất khác về họp hành, dĩ nhiên là buổi họp nên đi vào
đúng trọng tâm, tránh dài dòng tốn thời gian nhưng là vô cùng cần thiết để
tổng kết tuần tháng, và đưa ra định hướng hoạt động cho tháng mới. Không cần
phải nói, chúng ta đều biết mục tiêu, định hướng quan trọng thế nào rồi đấy!
Và cuộc họp còn có một ý nghĩa quan trọng hơn, đó là gắn kết, rút kinh nghiệm,
chỉnh đốn hoặc tạo động lực cho nhân viên.
Dĩ nhiên, có nhiều quy trình công ty thật sự nhiêu khê vì nhân công đã quen
việc nên chẳng ai buồn sửa đổi, nhưng chắc rằng hiếm tổ chức nào để cho những
“nhiệm vụ nhảm nhí” chiếm quá nhiều thời gian làm việc của nhân viên và ảnh
hưởng xấu đến hiệu suất của họ.
Công việc vô nghĩa là cội nguồn của bất hạnh.
Tác giả có đề cập rằng ông đã gặp nhiều trường hợp từ bỏ những công việc vô
nghĩa lương cao nhưng làm tâm hồn họ trống rỗng để chuyển sang những công việc
lương thấp nhưng có ý nghĩa và họ hạnh phúc hơn rất nhiều.
Tôi tự hỏi ông đã từng gặp những con người làm những công việc có ý nghĩa
lương thấp (mà theo ông thường là công việc tay chân, tạo ra sản phẩm) đã chán
ngán công việc của mình và ghen tỵ với những kẻ lương cao trống rỗng trên kia
chưa?
Theo nghiên cứu của Dur và Len (2019), mục phân tích dữ liệu Khảo sát Quốc tế
thì những nghề mang lại sự nản lòng cho người lao động nhất là những nghề đơn
giản lặp đi lặp lại, không được tự chủ nhiều trong công việc như công nhân
khai thác, thợ may,…và trùng hợp thay, đây lại là những công việc ý nghĩa mà
David đề cập. Tôi thiết nghĩ, thậm chí không cần nghiên cứu này, ta có thể
thấy nhan nhản những câu chuyện, tâm sự chán đời chán việc của nhiều người
trong nhóm này trên các trang mạng xã hội.
Và nếu trường hợp tốt đẹp nhất mà David đề cập xảy ra, loại bỏ hết tất cả công
việc nhảm nhí lương cao (theo quan điểm của ông), loại bỏ hết những nhiệm vụ
không cần thiết và dùng số tiền đó chia đều cho nhân công các ngành tạo ra giá
trị cho xã hội. Vậy thì, chúng ta sẽ có toàn những con người làm việc có ý
nghĩa, thời gian làm việc hợp lý, lương cao. Các bạn đoán xem tất cả họ có
hạnh phúc không, ít nhất là trong công việc?
Tôi e rằng đây là câu hỏi khó, về một điều quá mơ tưởng, nhưng suy nghĩ một chút, tôi tin câu trả lời của các bạn sẽ giống tôi, là Không.
Trước tiên, việc được tăng lương, chế độ hấp dẫn sẽ giúp người ta vui thích
trong nhất thời nhưng nó không tạo ra niềm hạnh phúc lâu dài. Tác giả Adrian
Furnham và Ian Macrae đã có bài nghiên cứu thú vị về chủ đề này, các bạn có
thể tham khảo thêm từ quyển Tạo động lực tăng hiệu suất.
Con người chúng ta sinh ra với sự so sánh được lập trình sẵn trong não bộ. Cỏ
bên kia đồi lúc nào cũng xanh hơn cỏ bên nhà mình. Nếu hiện tại, dân cổ cồn
bảo công việc vô nghĩa này khiến tôi trống rỗng, tôi muốn được lao động tay
chân cật lực nhưng không áp lực thế này như anh thợ mộc. Anh thợ mộc lại ao
ước được như tay tư vấn tín dụng, được ăn mặc đẹp, ngồi máy lạnh cùng mấy em
giao dịch viên xinh tươi, chẳng như anh lúc nào người cũng lấm lem mồ hôi và
mùn cưa. Thì khi chỉ còn những lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, chị thợ
may chắc hẳn cũng đôi lần phải mủi lòng vì mong như cô làm vườn không phải
hành hạ sống lưng cả ngày.
Tôi tin rằng các bạn sẽ đồng tình với tôi, rằng việc bạn hạnh phúc hay không
chẳng hoàn toàn nằm ở công việc của bạn là gì, nó nằm ở cách bạn nhìn nhận và
hài lòng về công việc của bạn ra sao. Và điều này, mỗi người chúng ta phải tự
luyện tập.
Kết thúc
Bên cạnh những quan điểm trên, có một điều tôi vô cùng đồng tình với tác giả
đó là mối liên hệ chặt chẽ giữa Ý thức về công việc và Sức khỏe tâm lý cũng
như Hiệu suất làm việc của người lao động. Rõ ràng, để tạo nên một hệ ý thức
tốt về công việc không phải là chuyện của một cá nhân mà là của một tập thể xã
hội với tầm nhìn của ban lãnh đạo, văn hóa công ty, hệ thống phúc lợi và luật
lao động, cảm nhận của nhân công,…
Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là thế giới
quan của mỗi người. Niềm tin của chúng ta luôn đúng. Nếu bạn tin rằng công
việc của bạn là vô nghĩa, nó chính xác là vô nghĩa. Còn nếu bạn tìm thấy những
điều hữu ích trong công việc của mình, thì công việc ấy là công việc giá trị.
Vì vậy, nếu lúc nào đấy, các bạn cảm thấy công việc của mình chẳng mang lại
lợi ích thực sự, lại không có đủ điều kiện chuyển việc, đừng than vãn hệ thống
chính trị- kinh tế- xã hội tại sao không khai tử quách nó đi. Hãy đặt câu hỏi
“Công việc này có thật sự không giúp gì cho tôi? Cho gia đình tôi? Cho những
người xung quanh?”. Và trong quá trình tìm câu trả lời khách quan, biết đâu,
bạn sẽ cảm thấy công việc mà mình đang sở hữu vốn là một phước lành.
Disclaimer: Bài viết được Thành cá đù tổng hợp từ nhiều nguồn nhằm mang lại cái nhìn tổng quan nhất, trong bài viết này tôi có đưa vào các quan điểm cá nhân. Nếu bạn có thắc mắc về vấn đề bản quyền hoặc nội dung, vui lòng để lại bình luân bên dưới bài viết này hoặc gửi mail cho chúng tôi.
Tìm kiếm liên quan doi ngan lam ung lam viec vo nghia pdf, doi ngan lam ung
lam viec vo nghia ebook, đời ngắn lắm, đừng làm việc vô nghĩa pdf, Đời ngắn
lắm, đừng làm việc vô nghĩa ebook