Logistics là quá trình lên kế hoạch, áp dụng và kiểm soát các luồng chuyển
dịch của hàng hóa hay thông tin liên quan tới nguyên nhiên liệu vật tư (đầu
vào) và sản phẩm cuối cùng (đầu ra) từ điểm xuất phát tới điểm tiêu thụ.
Dịch vụ logisics là gì? Bạn có bao giờ thắc mắc như vậy không? Cá nhân tôi mặc
dù đã làm trong ngành shipping nhiều năm, và sau đó chuyển sang làm cho công
ty logisics, tôi vẫn có thời gian dài không có khái niệm rõ ràng về lĩnh vực
này.
Vậy logistics là gì? Logistics có thể tạm dịch một cách không sát nghĩa là
“hậu cần”, nhưng có lẽ đến nay Tiếng Việt chưa có thuật ngữ tương đương. Chúng
ta có thể chấp nhận từ logistics như một từ đã được Việt hóa, cũng tương tự
như nhiều từ khác trong thực tế đã chấp nhận như container, marketing…
Lịch sử logistics
Về mặt lịch sử, thuật ngữ logistics bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh cổ đại
của đế chế Hy Lạp và La Mã. Khi đó, những chiến binh có chức danh “Logistikas”
được giao nhiệm vụ chu cấp và phân phối vũ khí và nhu yếu phẩm, đảm bảo điều
kiện cho quân sỹ hành quân an toàn từ bản doanh đến một vị trí khác.
Công việc
“hậu cần” này có ý nghĩa sống còn tới cục diện của chiến tranh, khi các bên
tìm mọi cách bảo vệ nguồn cung ứng của mình và tìm cách triệt phá nguồn cung
ứng của đối phương. Quá trình tác nghiệp đó dần hình thành một hệ thống mà sau
này gọi là quản lý logistics.
Trong thế chiến thứ hai, vai trò của “logistics” càng được khẳng định. Đội
quân hậu cần của quân đội Mỹ và đồng minh tỏ ra có hiệu quả hơn của quân đội
Đức. Quân Mỹ đã đảm bảo cung cấp vũ khí, đạn dược, và quân nhu đúng địa điểm,
đúng thời gian, bằng những phương thức tối ưu.
Nhờ phát huy ưu thế về công tác
hậu cần mà Mỹ và đồng minh đã nhiều lần chiếm ưu thế trong cuộc chiến tranh.
Cũng trong thời gian này, nhiều ứng dụng về logictics đã được phát triển và
vẫn còn được sử dụng đến ngày nay, mặc dù đã có ít nhiều thay đổi để phù hợp
với môi trường sản xuất kinh doanh.
Logistics trong luật Việt Nam
Thuật ngữ logistics cũng đã được sử dụng chính thức trong Luật thương mại
2005, và được phiên âm (một cách khá “ngộ nghĩnh”) theo tiếng Việt là
“lô-gi-stíc”. Điều 233 Luật thương mại nói rằng:
“Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực
hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi,
làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói
bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng
hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao.”
Định nghĩa mang tính học thuật
Hiện có nhiều định nghĩa học thuật về thuật ngữ logistics. Theo Hiệp hội các
nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng (Council of Supply Chain
Management Professionals - CSCMP), thì thuật ngữ này được định nghĩa khá đầy
đủ như sau:
“Quản trị logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch
định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch
vụ cũng như những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp
ứng yêu cầu của khách hàng.
Hoạt động của quản trị logistics cơ bản bao gồm
quản trị vận tải hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật
liệu, thực hiện đơn hàng, thiết kế mạng lưới logistics, quản trị tồn kho,
hoạch định cung/cầu, quản trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. Ở một số mức độ
khác nhau, các chức năng của logistics cũng bao gồm việc tìm nguồn đầu vào,
hoạch định sản xuất, đóng gói, dịch vụ khách hàng.
Quản trị logistics là chức
năng tổng hợp kết hợp và tối ưu hóa tất cả các hoạt động logistics cũng như
phối hợp hoạt động logistics với các chức năng khác như marketing, kinh doanh,
sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin.”
Phân biệt với “Chuỗi cung ứng”
Nếu logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng như định nghĩa trên, thì
phần còn lại là gì? Phân biệt logistics và chuỗi cung ứng như thế nào? Hay nói
cách khác, logistics khác gì với chuỗi cung ứng?
Để có căn cứ phân biệt, ta quay trở lại với khái niệm "chuỗi cung ứng" cũng
của Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng. Hãy xem họ định
nghĩa thế nào:
“Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động
liên quan đến tìm nguồn cung, mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản
trị logistics. Ở mức độ quan trọng, quản trị chuỗi cung ứng bao gồm sự phối
hợp và cộng tác của các đối tác trên cùng một kênh như nhà cung cấp, bên trung
gian, các nhà cung cấp dịch vụ, khách hàng.
Về cơ bản, quản trị chuỗi cung ứng
sẽ tích hợp vấn đề quản trị cung cầu bên trong và giữa các công ty với nhau.
Quản trị chuỗi cung ứng là một chức năng tích hợp với vai trò đầu tiên là kết
nối các chức năng kinh doanh và các qui trình kinh doanh chính yếu bên trong
công ty và của các công ty với nhau thành một mô hình kinh doanh hiệu quả cao
và kết dính.
Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm tất cả những hoạt động quản trị
logistics đã nêu cũng như những hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự phối hợp về
qui trình và hoạt động của các bộ phận marketing, kinh doanh, thiết kế sản
phẩm, tài chính, công nghệ thông tin.”
Nếu so sánh hai định nghĩa trên, có thể thấy sự khác nhau cơ bản. Khái niệm
chuỗi cung ứng rộng hơn và bao gồm cả logistics và quá trình sản xuất. Ngoài
ra, chuỗi cung ứng chú trọng hơn đến hoạt động mua hàng (procurement) trong
khi logistics giải quyết về chiến lược và phối hợp giữa marketing và sản xuất.
1PL, 2PL, 3PL, 4PL là gì?
Khi nói đến logistics, bạn có thể hay nghe các công ty dịch vụ nhận mình là
3PL (Third Party Logistics provider), nghĩa là Công ty cung cấp dịch vụ
logistics bên thứ 3. Câu hỏi đặt ra là: 3PL là gì nếu họ là bên thứ 3, vậy còn
các bên thứ nhất (1PL), thứ hai (2PL), hay bên thứ tư (4PL) là gì? Ta cùng xem
từng khái niệm.
1PL là người cung cấp hàng hóa, thường là người gửi hàng (shipper), hoặc là
người nhận hàng (consignee). Các công ty tự thực hiện các hoạt động logistics
của mình. Công ty sở hữu các phương tiện vận tải, nhà xưởng, thiết bị xếp dỡ
và các nguồn lực khác bao gồm cả con người để thực hiện các hoạt động
logistics. Đây là những tập đoàn Logistics lớn trên thế giới với mạng lưới
logistics toàn cầu, có phương cách hoạt động phù hợp với từng địa phương.
2PL là người vận chuyển thực tế, chẳng hạn như hãng tàu, hãng hàng không,
hãng xe tải
3PL là người cung cấp giải pháp tổng thể cho dịch vụ logistics cho khách
hàng, họ thường đảm nhiệm một phần, hay toàn bộ các công đoạn của chuỗi cung
ứng.
4PL Thuật ngữ 4PL lần đầu tiên được công ty Accenture sử dụng, và công ty này
định nghĩa như sau: “A 4PL is an integrator that assembles the resources,
capabilities, and technology of its own organization and other organizations
to design, build and run comprehensive supply chain solutions.”
Ví dụ về dịch vụ logistics
Dưới đây là ví dụ về dịch vụ logistics cho công ty May 10, trích đăng từ bài
viết trên diễn đàn Vietship của thành viên có tên Dangerous Goods.
Công ty May 10 sản xuất và phân phối quần áo đi khắp nơi trong và ngoài nước,
giao hàng đến tận nơi, đến tận giá bán hàng của các đại lý bán buôn, bán lẻ,
thu hồi sản phẩm hư hỏng, lỗi, bán thanh lý hàng hết mốt, sale,
promotion..v.v..
Những việc cơ bản họ phải làm hàng ngày là làm hợp đồng, đặt mua vải, chỉ,
cúc, khóa, đinh, dây.v.v... ở trong, ngoài nước và sẽ ở nhiều nước khác nhau,
nhiều thành phố khác nhau (vì không thể mua toàn bộ phụ kiện ở 1 nước, 1 thành
phố được vì giá cả, mẫu mã, chất lượng ở mỗi nơi sẽ có 1 ưu thế, mỗi 1 sản
phẩm sẽ dùng 1 loại phụ kiện đặc biệt hoặc 1 loại vải theo đúng style của đơn
hàng đó và sẽ phải mua nhiều loại ở nhiều thành phố khác nhau, rồi sợ chiến
tranh, thiên tai...)
Công việc vận hành hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng sẽ có những đơn hàng theo
lịch trình lập trước gửi cho các công ty vận tải (công ty logistics) đến giờ
này, ngày này, tháng này công ty May 10 sẽ cần bao nhiêu cont vải của Italy,
bao nhiêu kg cúc của Hàn Quốc, bao nhiêu chỉ từ nhà máy trong Biên Hòa chuyển
ra để làm đơn hàng A trong bao nhiêu ngày...
Căn cứ theo Order của may 10,
công ty vận tải lên kế hoạch và trao đổi cùng May 10 để quyết định ngày nào
thì nhập cái gì trước, bằng đường nào, có thể kết hợp hay ghép hàng với đơn
hàng khác hoặc của đơn vị khác hay không, v.v..., mục đích nhằm tiết kiệm tiền
vận chuyển tối đa cho May 10, kịp tiến độ sản xuất hàng ngày mà lại không mất
nhiều chi phí lưu kho (việc này thì công ty May 10 không thể có điều kiện ghép
hàng, không có hệ thống đại lý toàn cầu và có phương án làm tốt bằng đơn vị
vận tải được).
Nếu mọi việc đều xuôn xẻ, công nhân không ai ốm, điện không bị mất, không mưa,
không bão, không động đất, không thay đổi đơn hàng, kiểu dáng, không thừa
thiếu, không thay đổi giá cả, không có sự cạnh tranh, đổi nhà cung cấp vv và
vv.... thì công ty vận tải cứ thế mà làm và thu tiền.
Nhưng, lúc nào cũng sẽ có chữ “nhưng”, sẽ có lúc 1 trong những nguyên nhân
khách quan đem đến, May 10 buộc phải nhập nguyên phụ liệu gấp để kịp về sản
xuất, đây là lúc các anh chị vận tải sẽ phải đưa ra phương án tối ưu cho khách
hàng, đi bằng gì Sea (LCL; FCL), Truck, Rail, Sea-Air hay Air... Vậy là các
công ty giao nhận vận tải (công ty logistics) phải tham gia sâu hơn vào công
việc sản xuất kinh doanh của May 10.
Hàng sản xuất ra sẽ cần đến 1 hãng tàu, 1 công ty Logistics hay 1 cty FWD nào
đó cho 1 vài anh chị khéo miệng đến nói dăm ba câu phải trái, hạ giá, nâng hoa
hồng để giành việc vận chuyển nhưng, lại có 1 chữ “nhưng”, cạnh tranh thế thì
khó lắm, công ty đang làm vận tải cho may 10 họ phải dán tem mã, đánh số từng
sản phẩm, từng thùng hàng, từng đơn hàng, từng lô hàng, còn 1 số động tác nữa
xin được bỏ qua, họ phải quét mã để có số liệu hàng hóa để đưa lên mạng của
công ty vận tải và để cùng quản lý lượng hàng, phụ liệu vào/ ra với May 10
nữa.
Hàng chuẩn bị ra lò rồi thì kế hoạch phân phối đi nội địa bao nhiêu, nước
ngoài bao nhiêu, cửa hàng này bao nhiêu sản phẩm, cửa hàng kia bao nhiêu sản
phẩm thì các anh vận tải cũng có rồi, lúc này thì công ty vận tải sẽ lên kế
hoạch đóng đơn nào, đi đâu trước, có thể có hàng lẻ, hàng cont, hàng bộ, hàng
Air nhưng các anh hàng không hoặc các anh hãng tàu hay các anh bảo là có
Contract giá tốt đợi đấy mà vào cạnh tranh được (các anh có thể làm
sub-contract thôi thì được) vì công ty vận tải người ta đã làm bao nhiêu công
đoạn có lãi rồi, nếu cần cạnh tranh bằng giá, họ sẵn sàng cạnh tranh giá thấp
hơn và sẽ sử dụng dịch vụ của hãng vận tải giá cao/ dịch vụ tốt hơn ông giá
rẻ/ dịch vụ kém và hơn nữa họ có 1 loạt công cụ mà hãng vận tải trực tiếp
không bao giờ cạnh tranh được thì chắc chắn May 10 sẽ không bỏ công ty vận tải
trọn gói kia được và lúc đó hãng vận tải trực tiếp chỉ đi săn đón các ông làm
vận tải trọn gói cho các nhà máy như May 10.
Hàng chuyển đến cảng đích rồi việc của công ty logistics lại tiếp tục làm thủ
tục hải quan, chuyển hàng đến kho phân phối hoặc chuyển trực tiếp đến từng cửa
hàng đặt sản phẩm hoặc đại lý bán hàng cho May 10...v.v...
Công ty logisitcs có thể thu tiền, ghi lại báo cáo lượng hàng tiêu thụ, hàng
tồn, hàng đổi, bảo hành, yêu cầu chuyển thêm hàng vào ngày mai,....v.v... cho
may 10 từ đó May 10 có kế hoạch sản xuất, phân phối, thu đổi, bảo hành, khiếu
nại nhà cung cấp vật liệu,.... và báo cho công ty vận tải kế hoạch vận chuyển,
thị trường này đang cần hàng này, không cần hàng kia, thị trường này bán ế
move qua thị trường khác để clear hàng.
Đơn nào còn đang nằm trong kho, đơn
nào đã ra thị trường và nằm tại shop nào, ngày tháng nào thì Sale, promotion
đơn nào, loại gì. Tất cả, tất cả những sản phẩm của May 10 đang nằm tại đâu,
đất nước nào, thành phố nào, kho hàng nào đều được công ty vận tải quản lý và
cập nhật thay đổi hàng ngày với May 10. Thậm chí các công việc tìm kiếm mở
rộng thị trường phân phối tại các nước, các yêu cầu, phản hồi từ các đại lý
bán hàng, từ công tác thị trường, từ khách hàng công ty vận tải có thể giúp
May 10 luôn vì công ty vận tải họ có hệ thống toàn cầu, biết về các công ty
bản địa nên thuận lợi hơn trong việc cầu nối thương mại.
Theo container-transportation.com, thanhcadu.com chia sẻ.