Suy giảm kinh tế là một cách nói tránh của suy thoái kinh tế, đây là một thuật
ngữ kinh tế vĩ mô dùng để chỉ sự suy giảm đáng kể trong hoạt động kinh tế nói
chung trong một khu vực nhất định. Tình trạng suy giảm kinh tế thường được ghi
nhận sau hai quí suy giảm kinh tế liên tiếp hay nói rõ hơn là kinh tế tăng
trưởng âm, được phản ánh bởi chỉ số GDP kết hợp với các chỉ số hàng tháng khác
như việc làm. Suy giảm kinh tế có biểu hiện rất rõ trong sản xuất công nghiệp,
việc làm, thu nhập thực tế và thương mại. Thực chất thì suy giảm kinh tế
là suy thoái kinh tế.
Để khắc phục được tình trang suy giảm chúng ta cần có cá nhìn tổng quan nhất
về Suy giảm kinh tế là gì? Nguyên nhân và tác động tới nền kinh tế?
Ngoài hai quý liên tiếp giảm GDP, các nhà kinh tế học đưa ra một số chỉ số
khác để xác định liệu một cuộc suy giảm sắp xảy ra hay đã diễn ra. Các chỉ số
này được chia thành hai loại: chỉ số hàng đầu (leading indicators) và chỉ số
chậm (lagging indicators). Các chỉ số hàng đầu được đưa ra trước khi cuộc suy
giảm chính thức được công bố.
Có lẽ chỉ số hàng đầu phổ biến nhất đó là Chỉ số công nghiệp Dow Jones (DJIA)
và Standard & Poor’s (S&P 500), thường xuất hiện vài tháng trước khi
cuộc suy giảm bắt đầu. Trong năm 2007, khi thị trường bắt đầu giảm vào tháng
Tám, bốn tháng trước khủng hoảng chính thức vào tháng 12 năm 2007.
Các chỉ số chậm mà đại diện là tỷ lệ thất nghiệp. Mặc dù Cuộc suy giảm kinh tế
bắt đầu vào tháng 12 năm 2007, tỷ lệ thất nghiệp vẫn cho thấy việc làm đầy đủ
– tỷ lệ ở mức 5% hoặc thấp hơn. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu tăng gấp 3
trong tháng 5 năm 2008 và không phục hồi cho đến vài tháng sau khi cuộc suy
giảm kết thúc vào tháng 6 năm 2009.
Nền kinh tế có ba pha lần lượt là suy giảm, phục hồi và hưng thịnh.
Tuy nhiên, do hạn chế về dữ liệu thu thập và tính chất của chu kỳ kinh tế thế
giới – vừa kết thúc pha suy giảm và đang dần phục hồi nhưng chưa đạt đến pha
hưng thịnh. Vì vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu hai pha suy giảm và pha phục hồi.
Chu kỳ kinh tế cũng như hiện tượng suy giảm kinh tế ảnh hưởng nghiêm trọng đến
doanh nghiệp. Do đó, việc nghiên cứu hệ thống các lý thuyết của chu kỳ kinh tế
và suy giảm kinh tế là nhiệm vụ quan trọng được các quốc gia quan tâm.
Tuy
nhiên, những trường phái khác nhau đưa ra những cách giải thích khác nhau về
suy giảm kinh tế. Sau đây luận án trình bày quan điểm của một số trường phái
cơ bản và từ đó, tác giả vận dụng các lý thuyết này để giải thích các hành vi
của các chủ thể trong nền kinh tế gắn với suy giảm kinh tế.
Suy giảm/ suy thoái kinh tế trong tiếng Anh là “Recession”.
Nguyên nhân gây ra suy giảm kinh tế
Nhiều học thuyết kinh tế đã cố gắng giải thích nguyên nhân tại sao và cách
thức một nền kinh tế chệch khỏi xu hướng tăng trưởng dài hạn và bước vào thời
kì suy giảm tạm thời. Những học thuyết này được phân loại rộng theo các
yếu tố kinh tế thực tế, tài chính hoặc tâm lí, và một số học thuyết làm cầu
nối giữa các học thuyết trên.
Một số nhà kinh tế tin rằng những thay đổi có thực và sự thay đổi cấu trúc
trong các ngành là cách giải thích tốt nhất cho nguyên nhân và cách thức suy
giảm kinh tế xảy ra. Ví dụ, khi giá dầu tăng đột ngột, kéo dài do khủng hoảng
địa chính trị có thể dẫn tới chi phí của nhiều ngành tăng vọt hoặc sự xuất
hiện của một công nghệ mới mang tính cách mạng có thể khiến toàn bộ các ngành
khác trở nên lỗi thời.
Thuyết Chu kì Kinh doanh thực là ví dụ hiện đại tốt nhất cho những học thuyết
này, giải thích suy giảm là phản ứng tự nhiên của những người tham gia lí trí
trong thị trường đối với một hay nhiều cú sốc tiêu cực có ảnh hưởng thực,
không lường trước được đối với nền kinh tế.
Một số học thuyết khác cho rằng suy giảm phụ thuộc vào các yếu tố tài chính.
Các học thuyết này tập trung vào sự bùng nổ của tín dụng và rủi ro tài chính
trong khoảng thời gian mà nền kinh tế đang tăng trưởng tốt trước một cuộc suy
giảm, hoặc sự thắt chặt của tín dụng và tiền bạc trước thềm suy giảm, hoặc cả
hai.
Các học thuyết dựa trên tâm lí học về suy giảm có xu hướng nhìn vào sự hưng
phấn quá mức của thời kì bùng nổ của nền kinh tế trước đó hoặc sự bi quan sâu
sắc trong môi trường suy giảm như giải thích tại sao suy giảm có thể xảy ra và
thậm chí còn tồn tại.
Học thuyết kinh tế của Keynes chính là ví dụ tiêu biểu của trường hợp này, vì
nó chỉ ra rằng một khi suy giảm bắt đầu, vì bất kỳ lí do gì, khi tâm lí bầy
đàn của các chủ thể trong nền kinh tế trở nên tiêu cực, các nhà đầu tư có thể
tự xây dựng nên thực tế dựa theo kì vọng của họ về tâm lí bi quan của thị
trường, điều này dẫn tới giảm thu nhập khiến cho chi tiêu sụt giảm.
Tác động của suy giảm kinh tế
Dấu hiệu suy giảm kinh tế
Nếu một chính phủ ghi nhận hai quý giảm liên tiếp của chỉ số Tổng sản phẩm
quốc nội (GDP), thì một quốc gia đang trong thời kỳ suy giảm. GDP về cơ bản là
chỉ số sức khỏe của nền kinh tế mỗi quốc gia.
Việc làm
Sẽ có ít việc làm hơn. Ít hơn rất nhiều. Điều đó có thể khó tin, với ước tính
một triệu người trong chúng ta đã thất nghiệp.
Chi tiêu
Ít việc làm hơn có nghĩa là ít người kiếm được tiền để mua đồ, đặc biệt là
những thứ không cần thiết. Vì vậy, trong khi các siêu thị có thể vẫn giữ được
doanh thu, thì đó là các quán cà phê, nhà hàng, quán rượu, quần áo và các mặt
hàng xa xỉ sẽ bắt đầu sụp đổ trước tiên.
Tiền lương
Ít việc làm hơn cũng có nghĩa là tiền lương trì trệ hoặc thậm chí giảm. Với
nhiều người theo đuổi số lượng công việc ít hơn, sẽ có ít động lực hơn cho các
nhà tuyển dụng để đưa ra mức lương cạnh tranh.
Khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp đấu tranh cho một chỗ đứng trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt của kinh tế này, việc trì hoãn trở nên không thể
tránh khỏi.
Vì vậy, trong thời kỳ suy giảm, bạn có nhiều khả năng bị sa thải,
hoặc bị dư thừa, mặc dù điều đó phần lớn phụ thuộc vào ngành nghề của bạn. Các
công việc của chính phủ, giáo dục và chăm sóc sức khỏe an toàn hơn trong suy
giảm so với các công việc trong ngành sản xuất, xây dựng, tài chính và CNTT.
Nợ nần
Thất nghiệp, thiếu việc làm hoặc mức lương thấp hơn - hóa đơn vẫn có thể tăng
lên. Chính phủ Morrison đã ban hành một lời cầu xin các nhà cung cấp năng
lượng, chủ nhà và các nhà tài chính cho vay mua nhà để thực hiện lòng trắc ẩn
trong những thời điểm khó khăn này. Nhưng nếu thời gian suy giảm kéo dài,
những nhà cung cấp này có thể không tiếp tục sự đồng cảm hiện tại của họ. Ô tô
và nhà cửa có thể bị buộc phải bán đi để trang trải các hóa đơn.
Bất động sản
Theo một số chuyên gia kinh tế, nếu tỷ lệ thất nghiệp của Úc đạt 10%, thì giá
nhà có thể giảm tới 20%. Đó là tin xấu cho bất cứ ai nhìn thấy số dư chưa trả
cho khoản vay mua nhà của họ trở nên cao hơn giá nhà có thể bán đi. Nó gọi là
vốn chủ sở hữu âm.
Trong cuộc khủng hoảng thế chấp được gọi là cho vay dưới chuẩn ở Mỹ đã dẫn tới
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2009, ước tính 47% tài sản bị
tịch thu do vốn chủ sở hữu âm. Tuy nhiên, đây là một tin tốt, nếu bạn đang cố
gắng tham gia vào thị trường bất động sản lần đầu tiên. Và nếu bạn có
một công việc ổn định, lương cao, toàn thời gian.
Du lịch
Quên đi. Không có ai đi đâu trong một thời gian khá lâu. Về mặt tích cực, suy
giảm không kéo dài mãi mãi. Trên thực tế, chúng thường có vòng đời từ 18 đến
24 tháng. Chúng ta chỉ mất nhiều năm để phục hồi kinh tế sau suy giảm.
Các biểu hiện của suy giảm kinh tế
Lãi suất trái phiếu
Đường cong lãi suất trái phiếu là một trong những tín hiệu của một cuộc suy
giảm. Đơn cử là đường cong lãi suất trái phiếu kỳ hạn 3 tháng và 10 năm đã tác
động lớn đến các cuộc suy giảm gần đây nhất của Hoa Kỳ.
Trong lĩnh vực tài chính, đường cong lãi suất trái phiếu (yield curve) là
đường thể hiện các mức lãi suất khác nhau đối với các khoản vay có giá trị
ngang nhau nhưng kỳ hạn khác nhau. Ví dụ: trái phiếu có kỳ hạn 2 tháng so với
trái phiếu có kỳ hạn 2 năm...
Nguyên nhân chủ yếu do lạm phát. Lạm phát thường đồng nghĩa với sự tăng trưởng
kinh tế. Lạm phát tăng sẽ khiến lượng trái phiếu mua vào cao hơn để lấy lãi
suất bù đắp vào khoản mất giá. Do đó, đường cong lãi suất phản ánh tác động
của thị trường đối với nền kinh tế, lạm phát là nguyên nhân chính.
Theo nguyên tắc lãi suất dài hạn sẽ cao hơn so với lãi suất ngắn hạn. Khi xảy
ra trường hợp lãi suất dài hạn lại thấp hơn so với lãi suất ngắn hạn thì đường
con lãi suất sẽ có dấu hiệu đảo ngược. Yếu tố này dẫn đến tăng trưởng kinh tế
giảm.
Điều kiện tín dụng
Theo các nhà kinh tế, một trong những dấu hiệu cho thấy suy giảm kinh tế là
tình trạng điều kiện vay vốn trở nên khó khăn, đặc biệt là với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Nếu các ngân hàng thắt chặt các chính sách về cho vay khi
họ nhận thấy những rủi ro trong tương lai của các khoản vay này, chiều hướng
đi xuống của hoạt động kinh tế sẽ trở nên rõ ràng hơn.
Các cuộc khảo sát như:
thăm dò ý kiến với các chuyên viên cho vay của các ngân hàng; chỉ số điều kiện
tín dụng sẽ là những đầu mối quan trọng cho thông tin này.
Tâm lý kinh doanh
Hiện nay, cùng với tình hình bất ổn, chiến tranh và sự leo thang của giá
nguyên liệu vô hình chung đã tạo ra tâm lý dè dặt trong hoạt động đầu tư. Khảo
sát về hoạt động kinh tế và chỉ số sản xuất của doanh nghiệp cũng có thể cho
thấy xu hướng này.
Theo Jess Edgerton - chuyên gia kinh tế cao cấp của
JPMorgan Chase & Co cho biết, suy giảm sẽ dẫn đến giảm chi tiêu vốn, điều
này về lâu về dài sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, nhu cầu lao động của
các doanh nghiệp.
Trong tình hình hiện tại, niềm tin vào nền kinh tế toàn cầu của các nhà đầu tư
trên thế giới đang giảm xuống. Theo báo cáo của Global CEO Outlook 2019 của
KPMG cho thấy, trong bốn nền kinh tế lớn - Úc, Anh, Pháp và Trung Quốc, chưa
đến một nửa số CEO tự tin vào triển vọng phát triển nền kinh tế toàn cầu.
Nợ xấu gia tăng
Thất nghiệp, thiếu việc làm, mức lương thấp trong khi lạm phát gia tăng sẽ làm
tăng nguy cơ nợ xấu của các cá nhân. Đối với nợ xấu của Chính phủ, viêc thiếu
nguyên liệu sản xuất sẽ dẫn đến tình trạng phải đi vay các quốc gia khác,
trong thời gian kéo dài, nền kinh tế không có chuyển biến tích cực sẽ dẫn đến
nợ xấu.
Thị trường lao động
Hiện nay, do tình hình dịch bệnh ở nhiều quốc gia, số liệu về người đnag hưởng
trợ cấp thất nghiệp sẽ cho thấy tình hình của nền kinh tế không hề khả quan.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay có xu hướng thu hẹp hoạt động sản suất, kinh doanh
hoặc sáp nhập thâm chí là giải thể dẫn đến việc tái cơ cấu lại lao động, cắt
giảm nhân sự, tính giảm biên chế. Điều này báo hiệu một cuộc suy giảm kinh tế
đang đến gần.
Ngoài ra, dữ liệu về tiền lương tháng sẽ cho thấy biểu hiện về tình hình của
thị trường lao động một cách rõ rệt hơn. Thu nhập của người dân giảm, ảnh
hưởng đến cơ cấu GDP, cơ cấu GDP là căn cứ nhận định sự tăng trưởng của nền
kinh tế. Vào thời điểm các công ty ngừng tuyển dụng thêm nhân công hoặc thậm
chí là sa thải nhân công, thu nhập của lao động giảm sút, đó là biểu hiện mầm
mống của một cuộc suy giảm.
Một con số liên quan khác là lượng nhân lực được chuyển dụng tạm thời. Khi làm
ăn thuận lợi, các doanh nghiệp có thể tuyển dụng thêm nhân viên tạm thời để
đáp ứng được hết nhu cầu. Khi kinh doanh xuống dốc, nhân viên thời vụ sẽ là
những người đầu tiên mất việc, mất đi nguồn thu nhập.
Hậu quả của suy giảm nền kinh tế
Thương mại toàn cầu giảm
Nếu sản lượng lẫn nhu cầu của nền kinh tế giảm. Tình hình đầu tư, sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước bị hạn chế sẽ dẫn đến sự sụt giảm
trong nhập khẩu của các hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa cơ bản và các nguyên liệu
vật liệu từ nước ngoài cũng sẽ giảm theo đó. Như vậy, tình hình thương mại sẽ
đi xuống khi có yếu tố tác động của suy giảm kinh tế.
Sự mất giá của đồng tiền
Như đã phân tích ở trên, lạm phát gia tăng dẫn đến tình trạng giá trị đồng
tiền của các quốc gia giảm mạnh. Đồng tiền mất giá sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh
tế không chỉ tác động đến một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến hoạt động xuất
nhập khẩu với các quốc gia khác.
Giá hàng hóa, nguyên vật liệu thô sẽ giảm
Giá dầu cao là biểu hiển của nhu cầu hàng hóa của thế giới trong những năm gần
đây tăng cao. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, tình trạng này sẽ không kéo
dài, bởi tình hình dịch bệnh, tình trạng bất ổn về an ninh, chính trị đã và
đang ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới, nếu như tình hình này kéo dài sẽ dẫn
đến suy giảm kinh tế.
Nếu nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc giảm thì nhu cầu về sản
xuất hàng hóa, nhu cầu về nguyên liệu sản xuất cũng sẽ giảm đáng kể.
Hạn chế sự can thiệp của ngân hàng trung ương
Hiện nay, nếu tình hình kinh tế đi xuống, ngân hàng trung ương sẽ không thể sử
dụng các công cụ tiền tệ để kích thích tăng trưởng kinh tế do việc làm này sẽ
làm gia tăng lạm phát của quốc gia. Do đó, có thể thấy rằng năng lực trợ giúp
của ngân hàng đối với nền kinh tế suy giảm gặp nhiều trở ngại, thanhcadu.com chia sẻ.